Thấy bản khắc gỗ con rồng Lạc Long Quân ở nhà bạn Đài Loan

Thấy bản khắc gỗ con rồng Lạc Long Quân ở nhà bạn Đài Loan

Thấy bản khắc gỗ con rồng Lạc Long Quân ở nhà bạn Đài Loan

Thấy bản khắc gỗ con rồng Lạc Long Quân ở nhà bạn Đài Loan

Thấy bản khắc gỗ con rồng Lạc Long Quân ở nhà bạn Đài Loan
Thấy bản khắc gỗ con rồng Lạc Long Quân ở nhà bạn Đài Loan
Thứ bảy, 28-12-2024 14:53, (GMT+07:00)
Thấy bản khắc gỗ con rồng Lạc Long Quân ở nhà bạn Đài Loan
26-08-2019 12:01

Cuối Xuân năm 1992, một thương nhân Đài Loan nhập cảnh vào Việt nam qua cửa khẩu Tân Sơn Nhất. Trên passport ghi tên Eddy Hsu – 許燦煌 (Hứa Xán Hoàng).

Cao Phong Pham
Vợ chồng anh Cao và sắc phong bằng lụa vua Minh Mạng truy tặng cho Nhị phẩm quan Phạm Tiến Thụy. (Ảnh: CAO PHONG PHAM)

Thất bại trên thương trường quê nhà, chàng trai 30 tuổi muốn bứt ra, tìm một hướng kinh doanh mới tại Việt Nam.

Sang Việt Nam, Eddy Hsu thích các bạn gọi thân mật là Cao. Tôi sẽ gọi anh như thế sau khi đã xin phép anh.

Việt Nam năm 1992 vẫn chỉ có ánh hào quang không cắt ra được như một miếng bánh ngọt sau khi kinh qua chiến tranh với Mỹ và các cuộc xung đột Trung Quốc, Campuchia. Nền kinh tế lụn bại khoác trên một đất nước tơi tả, chao đảo, lại rách thêm sau những lo sợ, hoảng loạn khi khối XHCN sụp đổ.

Song niềm lạc quan của người Việt Nam đã giúp Cao. Kết hợp với chuỗi siêu thị tư nhân đang lan dần đến các tỉnh, các quầy bán mỹ phẩm của Cao dần phát triển nhanh chóng cùng với nhu cầu làm đẹp đang lên của người dân.

Cao gặp một người bạn Việt Nam mà anh luôn nhắc đến với sự ngưỡng mộ trong những câu chuyện kể cho tôi.

Đó là Huy Quang, cháu của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để (1882-1951), dòng chính của Hoàng đế Gia Long (1762-1820). Phía trên bàn làm việc của anh Cao tại Đài Loan vẫn để bức ảnh hiếm hoi về Kỳ ngoại hầu, phía sau có chữ ký tặng của Huy Quang.

Người bạn thân thiết ấy đã tặng Cao hai quyển sách, như hai cách cửa mở cho Cao trên mảnh đất mới. Một là Truyện Kiều của Nguyễn Du. Hai là cuốn ‘Việt Nam Sử lược’ của học giả Trần Trọng Kim.

Có duyên với văn hóa Việt

Về sau này, anh Cao mới ngẫm ra chữ Mệnh vận vào mình ra sao.

Mỗi con đường như đều bắt nguồn từ một duyên cớ. Có khi từ một chuyện không đâu.

Anh Cao kể:

“Một buổi chiều ở Sài Gòn năm 1995, tôi đang rất buồn chán chạy xe máy trên đường Nguyễn Thị Minh Khai giữa quận 5 và quận 3, thì nhìn thấy gần hai chục nhà sách cũ. Tôi nghĩ, hay mua sách về để xem. Điều thú vị là ở đây tôi nhìn thấy những cuốn sách cổ có từ thời Thanh. Tôi hỏi bà chủ là bao nhiêu tiền một cuốn. Bà nói giá mỗi cuốn 20 ngàn đồng (khoảng 1 đôla). Tôi thầm kêu, rẻ quá.

Bản khắc gỗ có 400 năm tuổi đời về hình ảnh Lạc Long Quân.
Bản khắc gỗ có 400 năm tuổi đời về hình ảnh Lạc Long Quân. (Ảnh: CAO PHONG PHAM)

“Tôi nhớ lại vào thời điểm năm 1979, khi tôi đang học ở Đài Bắc mỗi cuốn như vậy có giá 3000 Đài tệ (khoảng 100 đôla). Lúc đó tôi rất nghèo, tôi chỉ suy nghĩ cách làm ăn, nên nghĩ mua những cuốn sách này, về Đài Loan bán. Tôi mua gần 200 cuốn và tiêu hết 5 triệu đồng.”

Giống như câu chuyện về chiếc bình Padora trong thần thoại Hy lạp, Cao đã mở những trang sách cổ ra đọc. Những mảnh lịch sử vô tình hay hữu ý sắp bị gạt vào bờ vực hủy diệt đã nắm lấy tay Cao, khao khát sự trở lại.

Cao đã nghe được tiếng gọi âm thầm, mãnh liệt đó. Chúng ta may mắn có Cao.

Tôi hỏi anh, sưu tầm theo chủ đề gì và vì sao?

“Tôi mua tất cả những sách Hán Nôm, những sách nào có chữ Hán Nôm đều sưu tầm. Vì người Việt nam bây giờ không còn biết đọc Hán Nôm, càng người miền quê càng không hiểu. Không hiểu nên không có tình cảm với nó, nó sẽ mai một đi.”

Anh nói lại với tôi bằng tiếng Việt:

“Khi mua rồi, tôi có tình cảm với chúng. Tôi đã không bán một cuốn nào và sẽ không bán bất kỳ một cuốn nào.”

“Không phải vì vấn đề tiền bạc, mà tôi cảm thấy rằng những cuốn sách này có vai trò rất quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Nếu tôi không sưu tầm những thứ này thì lịch sử Việt nam sẽ không còn nữa.”

Câu nói của anh làm tôi bâng khuâng. Phạm Quỳnh viết ‘Truyện Kiều còn thì tiếng Việt còn. Tiếng Việt còn thì nước Việt còn’. Nhưng chỉ cần xem những con số năm tháng những việc làm với di cảo của Đại văn hào sẽ thấy đau lòng.

Theo tôi tìm hiểu thì hết 80 năm của thế kỷ 19, cộng thêm gần 40 năm sau của thế kỷ 20, 20 năm bước thêm sang thế kỷ 21, Đại thi hào vẫn còn ‘Ba tập thơ chữ Hán, chính họ Nguyễn Tiên Điền cũng không giữ được tập nào’.

Nguyễn Du từng than ‘Ba trăm năm nữa, ai người khóc Tố Như’, hẳn vì hiểu việc đời.

Vợ chồng anh Cao và năm quyển văn tuyển của Vua Tự Đức. Hiện giờ ở Việt Nam chỉ còn giữ phần thơ tuyển của vua
Vợ chồng anh Cao và năm quyển văn tuyển của Vua Tự Đức. Hiện giờ ở Việt Nam chỉ còn giữ phần thơ tuyển của vua. (Ảnh: CAO PHONG PHAM)

Cao mới đến Việt Nam năm 1992, lúc tiếng súng đã im. Đổ trách nhiệm văn hóa tổ tiên mất mát, thất lạc, cho đỏng đảnh đất trời, giặc giã, áo rách… có khiên cưỡng bên những tư liệu đủ loại, quý hiếm anh Cao tìm thấy? Giống tòa lâu đài trên cát sau ngọn thủy triều?

Anh Cao nói, lúc đó tôi rất nghèo, tôi chỉ suy nghĩ cách làm ăn. Chữ ‘nghèo’ đi mua sách, đổi được chữ ‘thêm’ ngoắc sau cái nghèo?

May, nhờ ý thích vẽ mày, tô môi của phái nữ mà anh Cao có đồng ra, đồng vào, đeo mệnh trời dúi vào tay, giữ hộ đất này cái hồn, cái cốt. Mộng thương gia rẽ ngang thành một nhà Việt Nam học.

Ngân quỹ dành cho những đề tài cấ

p nhà nước của Viện Hàn lâm KHXH, Viện Sử hay Viện Hán Nôm… hẳn thiếu chất lửa như cái tình Cao yêu sử Việt?

Cao còn đi tìm xuất xứ, tìm lai lịch của từng thứ. Con đường song song, cô đơn, chẳng ai biếu không cho chiếc vé tàu. Mà ai cũng có một mái ấm cần chung tay vun đắp. Phía sau anh năm 1992 là người vợ ở Đài Loan đang mang thai cô bé gái đầu lòng với cái tên dịu dàng Dâu Tây.

Thế mới biết, con chữ vận vào Người khiếp thật.

Tôi hỏi Emily vợ anh, chị nghĩ sao về công việc của chồng mình? Một người tiêu tốn gia sản, tâm sức cho một dân tộc khác? Chị chỉ cười. Chị còn kể, nhiều khi đi đường thấy sách báo cũ, không đọc được chị chụp hình gửi cho anh để hỏi có nên mua không. Không biết thêm chữ gì vào câu ”của chồng, công vợ”. Cao thì sẵn có chữ ‘nghèo thêm’ từ lâu rồi.

Mấy ngày làm việc với anh từ tư gia đến Thư viện Cố Cung, tôi chỉ thấy nụ cười rạng rỡ của Emily, một công chúa xưa của bộ lạc Tayal, dân tộc lớn thứ hai trong các dân tộc nguyên trú ở Đài Loan mà Emily mang trong mình một nửa dòng máu.

Giang sơn Rùa Thần và Quốc tổ Lạc Long Quân

Không phải đợi đến thời Lê Lợi, Việt Nam mới có sự tích về rùa thần và những chuyện lạ.

Khâm Định Việt sử Thông giám cương mục viết:

Sách Cương mục Tiền biên của Kim Lý Tường chép rằng: Năm Mậu Thân thứ năm đời Đường Nghiêu (2357-2258 TCN.), Việt Thường thị sang chầu, dâng con rùa thần.

Thông chí của Trịnh Tiều viết:

Về đời Đào Đường, phương Nam có Việt Thường thị qua hai lần sứ dịch sang chầu, dâng con rùa thần; có lẽ nó được đến nghìn năm, mình nó hơn ba thước rưỡi, trên lưng có văn khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở mang trở về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là Quy lịch (lịch Rùa).

Năm Khai-Nguyên thứ hai (714), đời Đường, tiết đông-chí, Giao-Chỉ dâng một sừng tê, sắc như vàng, sứ-giả xin một cái mâm bằng vàng, đặt sừng vào, để trong đền, khí ấm xông lên người. Vua hỏi vì cớ gì? Sứ-giả tâu: “ấy là Tịch-Hàn-Tê. Thời Văn-Đế nhà Tùy (589-604), có tiến một cái, đến nay mới tiến lại”. Vua vui lòng tặng thưởng rất hậu.

Thơ Đỗ-Phủ có câu: “Kim bàn tê duy thận”, nghĩa là: “Sừng tê để trong mâm vàng rất cẩn-thận”.

Đỗ Phủ (杜甫; 712 – 770) có phải lấy cảm hứng từ ‘Kinh Thánh’ khắc trên mai Rùa thần mà lưu tâm đến Giao Chỉ? Ông là một trong hai nhà thơ vĩ đại nhất của lịch sử văn học Trung Quốc mà tài năng, đức độ được gọi là Thi Sử (诗史) và Thi Thánh (诗圣), ngang với Khổng Tử, vị thánh về triết học.

Sử Trung Hoa còn lưu những nhận xét của Đỗ Phủ câu chuyện cướp bóc của Mã Viện sau cuộc chiến với Hai Bà Trưng và về vóc và tơ lụa Giao Chỉ.

Ông cảm hoài về ý chí bất khuất của đất phương Nam

“Vũ lai đồng trụ bắc

Ý tẩy Phục ba quân

Nghĩa là

“Mưa phía bắc đồng trụ

Muốn rửa quân Phục Ba

Tô Đông Pha (蘇東坡 1037-1101) viết: “Nước Nam Việt từ đời Tam đại trở xuống, không đời nào dẹp yên cả”.

Song ở đất Việt còn ai nhớ rùa thần đội chữ ra đi ấy không? Chắc hẳn những con chữ bé nhỏ hơn 5000 năm tuổi trên lưng Rùa Thần 3,5m ấy sẽ gây hiệu ứng cảm xúc như chúng ta nhìn thấy hình khắc cánh chim Condo khổng lồ, hay hình nhà du hành vũ trụ chiếm trọn một sườn đồi như thể từ một hành tinh khác viếng thăm trái đất trên hoang mạc Nazca (Peru).

Đất mình, người nhiệt huyết với nước đời nào cũng có. Hẳn chỉ chưa tìm ra thôi áng cổ văn ghi lại câu chữ trên mai Rùa Thần. Chỉ cần chữa thói lãnh cảm, thờ ơ và cẩu thả với lịch sử?

Anh Cao đưa cho tôi xem một bản khắc gỗ và kể:

Quyển sách làm bằng giấy trầm hương đi cùng với câu chuyện Lạc Long Quân
Quyển sách làm bằng giấy trầm hương đi cùng với câu chuyện Lạc Long Quân. (Ảnh: CAO PHONG PHAM)

“Cổ vật này tôi tìm thấy ở một làng cách Đà Nẵng 30 km. Khi tôi đó tôi nhìn thấy trên phố một bác già đang chặt đồ ăn trên một miếng gỗ mà bà dùng như một cái thớt. Tôi thấy cái thớt rất đặc biệt, mầu đen, xung quanh bẩn thỉu thế này mà họ vẫn dùng. Tôi nói, tôi muốn xem một chút được không. Khi lật tấm gỗ lên thì tôi vô cùng sửng sốt. Mặc dù vào thời điểm đó tôi không biết ý nghĩa của bức trạm, nhưng tôi biết cách điêu khắc này ít nhất phải có tuổi đời 400-500 năm và còn hơn nữa.”

Tôi nói với bác già, tôi sẽ mua cho bác một cái thớt mới và bác đổi cho tôi tấm gỗ này. Bác đồng ý và nói trong nhà còn rất nhiều sách và thớt như thế, tôi muốn mua không. Tôi nói tất nhiên là quá được, tôi sẽ mua và trả tiền.”

Nhà báo thấy đây, quyển sách này cùng thời điểm lịch sử của cái thớt.”

Cao lấy cho tôi xem một bản Lĩnh nam Chích Quái, nói tiếp:

“Nhắc đến tổ tiên Việt Nam thì phải nhắc đến Thủy phủ, nhắc đến cuộc kết hôn giữa Lạc Long Quân và tiên nữ. Đây là con thuyền có tám mái chèo, hãy nhìn con rồng có ba đầu và chín đuôi này. Anh đã nhìn thấy Lạc Long Quân chưa? Lạc Long Quân đấy. Nếu không có quyển sách này thì tôi cũng không biết đó là Lạc Long Quân.

“Tôi mua quyển sách này ở miền Trung, nhưng nó phải có nguồn gốc từ miền Bắc. Vì chỉ có người miền Bắc mới dùng từ ‘anh cả’, ‘chị cả’ chỉ con trưởng.

Tôi nghiên cứu cách viết chữ của từng thời đại và tôi còn chưa dịch cho anh trong sách còn viết Đại Việt Quốc, Đại Việt chú không phải là An Nam, không phải là Đại Nam.”

Cách viết chữ có nét vẩy như thế này chỉ có ở nhà Hậu Lê, nhất định là nhà Hậu Lê (1428-1527). Nhà báo cầm lên, so trang giấy này với trang này, ngửi xem và soi dưới ánh sáng.”

Giấy này riêng Việt Nam mới có, nó không sợ nước, không sợ mối mọt, chỉ chỗ này là chuột cắn.”

Anh Cao hỏi tôi:

“Nhà báo có biết cây gì quý nhất không, cây trầm hương? Giấy này làm chính từ vỏ cây trầm hương đấy. Bây giờ chỉ có tôi và một giáo sư ở Đại học Bắc Kinh biết về điều này. Nhưng anh ấy không có bản sách này, còn tôi thì có.”

“Việt Nam hay bị ngập nước, nhưng loại sách này không sợ nước, đó là một loại sách viết về đạo giáo, trong đó nói về cách hành lễ.”

“…Tôi nghĩ chắc chắn loại giấy này có tác dụng như một loại thuốc. Sau đó ông già nói với tôi rằng thực ra cuốn sách có lịch sử 400 năm này làm từ giấy trầm hương.”

Anh Cao cho hay anh đã mua 100 cuốn sách như vậy và nói khoảng từ năm 1750 trở về trước mới còn giấy này. Sau này không còn nữa.

Hứa Xán Hoàng ở Đài Bắc
Anh Cao tức Hứa Xán Hoàng ở Đài Bắc đã sưu tập nhiều cổ vật Việt Nam. (Ảnh: CAO PHONG PHAM)

Anh cũng nói nếu nghiên cứu về lịch sử Việt Nam thì phải bắt đầu từ cổ vật này và cam đoan rằng bản khắc Rồng ba đầu này là hình ảnh duy nhất nói về tổ tiên người Việt.

Anh hỏi:

“Tôi ngạc nhiên vì sao người Việt chỉ thờ Vua Hùng mà không thờ Lạc Long Quân?”

Cao đã bỏ ra hơn 20 năm trong đời để tìm những mảnh ghép lịch sử Việt Nam, qua những tờ sắc phong, những trang sách cổ, có cái hằn vết lửa của các cuộc chiến xuyên qua. Để hôm nay tôi xúc động được trực tiếp ngắm nhìn, chạm vào và chụp lại những nhân chứng có một không hai.

Cám ơn anh Cao!

*Bài viết thể hiện quan điểm riêng của nhà báo tự do Phạm Cao Phong, hiện sống và làm việc tại Paris, Pháp. Ông vừa có chuyến thăm Đài Loan.

Theo BBC

 
Các bài khác
Bài Xem Nhiều Nhất
BÍ ẨN
SỰ THẬT
CỬU TỰ CHÂN NGÔN
VIDEO
ẢNH ĐẸP