Không ai mới sinh ra đã là anh hùng, và đương nhiên lại càng không thể là gian hùng ngay được. Dù là gian hùng hay anh hùng, để có thể đóng một trong hai vai thì không phải ai cũng làm nổi. Tào Tháo chính là một vai diễn đặc biệt như thế. 

Gian hùng Tào Tháo

Có câu “Thiên thời, địa lợi, nhân hoà”, phàm một sự việc gì xảy ra mà có thể thành công được (dù là tốt hay xấu) đều phải đạt được cả 3 yếu tố này. Người ta nói “loạn thế xuất anh hùng”, đúng. Vì anh hùng chỉ có thể xuất sinh khi thời thế đang loạn lạc, đất nước suy bại, trăm họ lầm than. Cần có bậc kỳ tài, thao lược xuất chúng, ý chí hơn người, hoặc võ nghệ siêu quần… vì quốc gia mà phó xuất, vì nhân dân mà hy sinh thì mới có thể hoàn thành đại nghiệp, lưu danh sử sách.

Tranh vẽ Tào Tháo (Nguồn: Wikipedia)

Vậy còn “loạn thế xuất gian hùng” thì sao? Cũng đúng. Vì “gian hùng” khác với “gian thần”. Gian hùng là anh hùng nhưng sử dụng thủ đoạn để đạt được mục đích, nhưng thủ đoạn này không phải vì nhu cầu cá nhân, ích kỷ mà vì nghĩ đến xã tắc, đến đại cục mà đành chọn lấy nó.

Còn gian thần là một kẻ gian ác, hoàn toàn chỉ vì mình, chẳng đoái hoài gì tới giang sơn đất nước, chỉ nhăm nhăm vun vén cho bản thân, làm hại người khác không từ thủ đoạn, những kẻ như thế nhất định phải trừ khử. Tào Tháo chỉ là một “gian hùng”, chứ không phải một “gian thần”. 

Từ năng thần thất vọng

Tào Tháo đã từng là thần tử năng nổ tích cực, đã từng bất chấp nguy cơ bị giáng chức để dâng sớ tâu bày điều hay lẽ phải, bảo vệ người ngay chính, ngăn cản kẻ xấu. Chỉ tiếc là mọi nỗ lực can gián đều thất bại. Hoạn quan tiếp tục lộng hành, làn sóng cải cách bị ngăn chặn.

Hán đế thậm chí còn tuyên bố: “Kẻ nào tấu trình về việc sửa sang chính trị tại các châu huyện mà không hiệu nghiệm, khiến dân chúng phao ngôn nhảm nhí đều bị bãi miễn chức vụ”. Phản ứng của triều đình đích thực làm Tào Tháo thất vọng. Tam Quốc Chí mô tả là Tháo “biết không thể khuông phò chính sự được, bèn chẳng dâng lời can gián nữa”. Không lâu sau, dù được thăng làm Thái thú Đông quận, Tháo từ chối mà “cáo bệnh về quê”.

Triều đình Đông Hán cũng đến hồi vô phương cứu chữa. Sau khi Hán Linh đế chết, Đại tướng quân Hà Tiến bị hoạn quan giết, đến lượt Đổng Trác vào kinh, phế Thiếu đế lập Hiến đế, sau lại giết luôn Thái hậu và Thiếu đế. Tôn nghiêm của Hán triều đã mất sạch.

Năm 189 Tào Tháo về đến Trần Lưu, bèn “phát tán gia tài, tập hợp nghĩa binh, chuẩn bị tru diệt Trác”. Đến năm 190 thì Tào Tháo đã có mặt trong liên quân Quan Đông của Viên Thiệu và 18 lộ chư hầu, cùng nhau thảo phạt nghịch tặc Đổng Trác.

Tào Tháo thất vọng về liên quân

“Tru diệt nghịch tặc, phục hưng xã tắc” tưởng đâu là chuyện cao cả, phàm ai là phe chính nghĩa cũng đều muốn làm, nhưng hóa ra không phải. Liên quân tụ họp xong, ngoài Tào Tháo và Tôn Kiên, không có một ai động binh hết.

Tào Tháo binh ít tướng thiếu, thua về tay Từ Vinh (tướng của Đổng Trác), đến khi quay về đại bản doanh liên quân chỉ thấy “chư quân binh lực hơn chục vạn, ngày ngày tụ họp uống rượu, chẳng mưu tính tiến thủ gì”.

Liên quân lúc này lộ rõ bản chất tự tư, chẳng những khước từ mưu kế của Tào Tháo, lại quay sang tàn hại lẫn nhau hòng chiếm lấy địa bàn cho riêng mình. Thứ sử Duyện Châu Lưu Đại giết chết Thái thú Đông quận Kiều Mạo. Thái thú Bột Hải Viên Thiệu bức hiếp Ký Châu mục Hàn Phức, cướp đoạt Ký Châu.

Triều đình Đông Hán làm Tào Tháo thất vọng. Nhưng những con người hiện tại của Hán triều mới thật sự khiến Tào Tháo tâm tàn ý lạnh. Lúc liên quân dùng dằng không tiến, Tháo đã từng thẳng thắn phê bình: “Các ông ôm mối ngờ vực không chịu tiến, làm mất lòng trông ngóng của thiên hạ, ta trộm vì các ông mà xấu hổ!”. 

Nhưng khi liên quân quay sang xâu xé nhau vì tư lợi, thì Tào Tháo không chỉ xấu hổ cho họ, mà còn nhận ra rằng, không thể trông đợi được bất cứ ai trong số các “thần tử Hán triều” đó, bèn bỏ đi, nuôi chí một mình.

Đến “gian hùng” thời loạn 

Tam Quốc bao quát cả một thời kỳ lịch sử gần một thế kỷ (từ 184 đến 280). Tại đó, 3 nước Ngụy, Thục, Ngô cùng nhau tranh đoạt thiên hạ. La Quán Trung viết “Tam Quốc diễn nghĩa” với quan điểm “chính thống” phò Hán.

Với ông, họ Tào không phải dòng dõi họ Lưu (Hán) nên được xem là đối nghịch với Lưu Bị và người dòng dõi Trung Sơn Tĩnh Vương. Vì thế, đương nhiên kẻ đối nghịch là Tào Tháo phải được mô tả như một tên “gian hùng”.

Tháo khôn ranh từ nhỏ. Vốn nghịch ngợm nên hay bị người chú mách với cha là Tào Tung. Vì thế, Tháo nghĩ ra ngay một kế để lừa chú. Thấy chú đến, Tháo giả vờ nằm quay ra đất như kẻ bị trúng phong. Chú Tháo thấy vậy sợ quá liền chạy vào báo với Tào Tung.

Tung ra thấy con không làm sao bèn hỏi: “Chú mày nói trúng phong, khỏi rồi à?”, “Thưa cha, từ nhỏ có bao giờ con bị bệnh ấy đâu! Chẳng qua chú ghét con mới đặt điều ra thế.” Từ đấy, Tào Tung tưởng thật và không bao giờ tin người em khi ông này mách tội Tào Tháo nữa.

Tào Tháo đa nghi

Người ta đã quá quen thuộc với các giai thoại về Tào Tháo với châm ngôn nổi tiếng: “Thà ta phụ người còn hơn để người phụ ta“. Ví như Tháo giết cả nhà Lã Bá Sa, mượn đầu Vương Hậu để yên bụng ba quân, giả vờ ngủ say để rồi giết cả lính hầu… Trong cái “bảy thực ba hư” của Tam Quốc, tác giả mượn Tào Tháo để mô tả một cách khái quát và sống động tính “gian hùng”, đa nghi ấy. 

Tào Tháo kỳ thị người hiểu rõ gan ruột mình đến chân tơ kẽ tóc như Dương Tu và Tuân Úc, sau này đều là các nạn nhân của ông. La Quán Trung đã dành trọn ác cảm với họ Tào qua bài hịch hùng hồn do Trần Lâm soạn cho Viên Thiệu khi chuẩn bị khởi binh đánh Tào Tháo.

Phải chăng với tư tưởng chủ đạo của Tam Quốc diễn nghĩa, ở Tào Tháo, chữ “nhân” – yếu tố đầu tiên của Ngũ thường (Nhân – Lễ – Nghĩa – Trí – Tín), được xem là thiếu hụt hơn hết so với các mặt khác. Chính điều này khiến ông không thể thuộc phe hoàn toàn “chính nghĩa”. Lòng nhân từ bác ái là điều mà từ xưa tới nay mọi người đều đặt lên hàng đầu, vì vậy không khó giải thích khi chứng kiến ác cảm với Tào Tháo của nhiều thế hệ người đọc Tam Quốc sau này.

Tào Tháo trích dẫn một bài thơ trước Trận chiến Xích Bích , chân dung tại
Cung điện Mùa hè , Bắc Kinh (Nguồn: Wikipedia)

Thực tế

Thực tế, Tào Tháo xuất sinh từ thời bình (hồi còn trẻ) cho đến lúc thời loạn (lúc đã lớn), chứng kiến sự hủ bại của triều đình, sự thủ đoạn của các chư hầu như đã nói ở phần đầu, thì thấy không thể nhờ cậy hay nương tựa vào một ai.

Kể từ lúc đó, Tào Tháo quyết định sẽ hành động một mình. Năng thần phải có quyền lực để trấn áp gian thần. Không có quyền lực, mọi ước muốn cải cách chỉ là trên giấy. 

Con đường Tào Tháo kể từ sau khi tách ra khỏi liên quân Viên Thiệu chính thức bước sang một trang mới. Tháo bắt đầu chiêu binh mãi mã, chiếm đất, chiếm thành, rồi sau đó nhờ cơ trời ông có thể bảo giá vua mà tiến lên thành Thừa tướng nhà Đông Hán. 

Khi này, quyền lực đã ở mức rất cao (dù chỉ là quyền lực chứ chưa có thực lực quân sự), thì ông đã có thể mỉm cười khi thấy ước muốn thống nhất thiên hạ của mình bấy lâu có hy vọng trở thành hiện thực được rồi. 

Từ những chiến thắng về mặt quân sự, Tào Tháo cũng từng bước đi xa hơn trên con đường chính trị. Năm 213, Tháo ép Hiến Đế phong mình làm Ngụy Công, ban cho Cửu tích. Năm 216, đánh Trương Lỗ xong, Tháo được “từ tước Công thành Ngụy vương”, hưởng thụ các đặc quyền “triều bái không phải xưng danh”, “vào triều không phải rảo bước”, được “đeo kiếm lên điện”, thậm chí được “đội mũ miện có mười hai tua, đi xe sáu ngựa kéo” (những nghi thức của bậc đế vương), lại lấy Tào Phi làm Thế tử nước Ngụy.

Ảnh Wikipedia

Tào Tháo trong mắt Nho giáo

Năm 220, chỉ vài tháng sau khi Tào Tháo mất, Tào Phi ép Hiến đế nhường ngôi, nhà Ngụy chính thức thay thế nhà Hán. Từ việc “phụng mệnh thiên tử hiệu lệnh chư hầu” cho đến cái tiếng “gian tặc thoán nghịch” của Tào Tháo, nên trong con mắt của Nho giáo truyền thống ông luôn là một kẻ “gian”.

Không ai mới sinh ra đã là gian hùng. Tào Tháo cũng vậy. Từ “năng thần” biến thành “gian hùng”, nói như Hứa Thiệu là do từ “trị thế” chuyển sang “loạn thế”. Nhưng trong tư duy của Tào Tháo, cũng phải có một quá trình chuyển tiếp lâu dài. Như chính lời Tào Tháo tự thuật rất thành thật trong bản “Thuật chí lệnh” của mình:

Cô ban đầu được cử làm Hiếu liêm, tuổi trẻ, tự biết mình không phải là kẻ sĩ nổi danh nơi hang động, thế nên chỉ muốn làm một viên Quận thú, nắn sửa chính giáo, kiến lập danh tiếng, khiến kẻ sĩ trên đời biết đến mình…

… Cô thân là Tể tướng, ngôi nhân thần đã cực quý, ước vọng đã quá rồi vậy. ..cô nói lời này, xem như tự cao tự đại, là muốn cho người ta nói hết lời, nên không phải úy kỵ gì. Thiết nghĩ quốc gia nếu không có Cô, chẳng biết có bao người xưng đế, bao kẻ xưng vương?…”.

Gian hùng, có lẽ quả thật do loạn thế mà tạo ra vậy.

Tiếng oan “Tào Tháo” nên được giải

Sử liệu từ “Tam Quốc Chí” đã cho ta nhìn thấy một năng thần Tào Tháo vốn đã bị “Tam Quốc diễn nghĩa” vùi che, một bộ mặt khác của kẻ “tuyệt gian” trong “tứ tuyệt” thời Tam Quốc. Thời Tam Quốc, anh hùng nghĩa sĩ lớp lớp như sóng cuộn Trường Giang. Người đời thường vì cái gian hùng của Tào Tháo mà tạo thành ác cảm.

Tuy thế, thực sự ông là một anh hùng, thậm chí là một ngôi sao lớn trên bầu trời Tam Quốc, sánh ngang những bậc đại trí, đại dũng khác như Quan Vũ, Gia Cát Lượng. Tiếng oan nghìn năm là gian thần tàn ác của Tào Tháo đã đến lúc phải được giải. 

Theo ĐKN