Một bản in thạch bản màu miêu tả Trận chiến Antietam, trận chiến đẫm máu nhất từng diễn ra trên đất Mỹ, vào khoảng năm 1888. (Thư viện Quốc hội Mỹ)
Mùa hè năm 1862 là khoảng thời gian mà tổng thống Abraham Lincoln đã trải qua một cuộc đấu tranh tư tưởng đầy cam go. Khi mà cuộc nội chiến kéo dài và số phận của quốc gia đang đứng ở ‘ngã ba đường’. Cân nhắc trách nhiệm và quyền hạn của mình với tư cách là một tổng thống, Abraham thấy mình cần có trách nhiệm và nỗ lực lớn hơn.
Abraham đã triệu tập Bộ trưởng Hải quân Gideon Welles và Bộ trưởng Ngoại giao William Seward tháp tùng ông một ngày trong tháng Bảy. Khi đoàn xe khởi hành, Lincoln lần đầu đề cập về một tuyên ngôn – đó là một tài liệu sẽ thay đổi lịch sử Hoa Kỳ.
Welles viết: “Tổng thống cẩn trọng suy tính đến những ảnh hưởng của phong trào giải phóng – và nói rằng ông ấy đã suy nghĩ rất nhiều, rồi đã đi đến một kết luận rằng hoặc là phải giải phóng nô lệ hoặc là phải thất bại”.
Trong chuyến đi, họ tiếp tục thảo luận; Lincoln đề nghị Welles và Seward nghiên cứu sâu hơn về tuyên ngôn này. Đây là điều mà tổng thống cảm thấy cần phải thực hiện.
Cuối tháng Bảy, Lincoln đã soạn xong bản tuyên ngôn. Tuy nhiên, ông muốn tuyên ngôn này được tiếp thêm sức mạnh bằng chiến thắng của Quân đội Liên minh.
Hai tháng sau, đại tướng của Quân đội Liên minh George B. McClellan và Quân đội Potomac hành quân để ngăn chặn bước tiến của Quân miền Nam, tướng Robert E. Lee và Quân đội Bắc Virginia. Lincoln hồi hộp chờ đợi tin tức từ trận chiến Antietam.
Về sau Robert P. Kennedy thuộc Lực lượng Bộ binh Tình nguyện Ohio số 23 đã nhận xét về tầm quan trọng của những gì đã diễn ra vào cuối mùa hè năm 1862. ‘Tại cánh đồng Antietam đã diễn ra một trận chiến quan trọng mang tính định đoạt số phận và quyền tự do của hàng triệu người’.
Mệnh lệnh đặc biệt 191
Sau khi nhận quyền chỉ huy Quân đội Potomac vào ngày 2 tháng 9, tướng McClellan đã viết trong nhật ký của mình “Đó là một tuần rất khốc liệt.” Nó bắt đầu với trận chiến Núi Nam ít được người ta biết đến.
Sau khi băng qua Potomac và tiến vào Maryland, Lee nghĩ rằng chỉ riêng sự hiện diện của Quân miền Nam sẽ đẩy được lực lượng của Liên minh khỏi Harpers Ferry, một địa điểm quan trọng để đảm bảo các tuyến đường tiếp tế và thông tin liên lạc. Tuy nhiên khi kế hoạch không thành công, Lee đã ban hành Lệnh đặc biệt 191 vào ngày 9 tháng 9. Lệnh tách quân đội, số lượng quân lớn hơn được lệnh đánh chiếm các đồn trú của quân Liên minh tại Martinsburg và Harpers Ferry. Lee ra lệnh cho phần còn lại của quân đội đến South Mountain và Hagerstown, nơi họ đang bảo vệ một số đèo núi quan trọng.
Robert Hall Chilton, phụ tá của tướng Lee, đã viết những mệnh lệnh này và gửi cho các tướng của Lee. Trước khi mệnh lệnh được ban hành, tướng DH Hill dưới quyền chỉ huy của tướng Thomas Jackson, vì vậy ông đã nhận được lệnh của Jackson. Tuy nhiên, các mệnh lệnh đã phong cấp cho tướng Hill làm một chỉ huy độc lập, vì vậy Chilton đã soạn riêng các mệnh lệnh cho Hill. Chính bản bổ sung này tạo ra sự nhầm lẫn xung quanh Mệnh lệnh đặc biệt 191. Hill tuyên bố rằng anh ta chưa bao giờ nhận được mệnh lệnh bổ sung mà Chilton gửi; và rằng nó đã rơi vào tay của kẻ khác.
Quân đội Liên minh rời Martinsburg, và Quân miền Nam lập kế hoạch chiếm dụng phà Harpers. Tuy nhiên, việc này diễn ra lâu hơn Lee nghĩ, và quân Liên minh đã phát hiện ra một điều quan trọng.
Trong khi tạm nghỉ sau cuộc hành quân, các binh sĩ Bộ binh Tình nguyện Indiana số 27 phát hiện ra mệnh lệnh của Lee có kèm theo hai điếu xì gà. Họ nhanh chóng nhận ra tầm quan trọng của nó; và tất nhiên các mệnh lệnh này được chuyển đến tay McClellan vào ngày 13 tháng 9. Một thực tế là mặc dù ông không có cách nào để biết các mệnh lệnh trước đó chính xác đến mức nào nhưng giờ đây ông biết rằng Lee đã chia quân. Với thông tin này, McClellan ra lệnh tấn công Quân miền Nam tại South Mountain, nhằm giành quyền kiểm soát đèo South Mountain.
Thương vong tăng lên khi trận chiến diễn ra, Quân đội Liên minh cuối cùng đã đánh đuổi thành công được Quân miền Nam; nhưng một vài sự cố đã cho phép Quân miền Nam chiếm lấy Harpers Ferry. Tuy nhiên, South Mountain đã đánh dấu một chiến thắng quan trọng của lực lượng Liên minh, và nó tạo tiền đề cho một trong những trận chiến khốc liệt nhất về sau.
Trận chiến Antietam
“Ngày mai, chúng ta sẽ chiến một trận quyết định vận mệnh của quốc gia,” tướng Liên minh Hooker nói với các cấp dưới vào đêm hôm trước.
Cuộc giao tranh ngày hôm sau là một trong những trận chiến tàn khốc nhất. “Trong cái cảnh tranh tối tranh sáng, và chúng tôi không thể phân biệt được đâu là phía địch, phía ta,” Đại úy Albert Monroe của Pháo binh hạng nhẹ Rhode Island số 1 nhớ lại. “Chúng tôi có thể nhìn thấy những tia nắng đầu tiên chiếu sáng các đỉnh đồi phía xa, khi có một tia sáng bất ngờ lóe lên, thì không khí xung quanh dường như trở nên sống động với hàng loạt đạn bắn từ pháo binh của kẻ thù. Ngọn đồi đối diện như trở thành một ngọn núi lửa đang hoạt động, bốc ra khói lửa ”.
Một số cuộc giao tranh khốc liệt nhất ngày hôm đó đã diễn ra ở Cornfield. Cánh đồng rộng 24 mẫu Anh này đã ‘đổi chủ’ không dưới sáu lần chỉ trong ba giờ. Quân Liên minh cuối cùng đã thành công trong việc đánh bật quân miền Nam, song cũng chịu nhiều thương vong ở West Woods. Tổng cộng, các cuộc giao tranh ở Cornfield và West Woods khiến khoảng 10.000 người thiệt mạng hoặc bị thương chỉ trong 4 giờ.
Tướng Hooker kể lại ‘Từng hàng từng hàng cây ngô bị đổ gục như bị người ta dùng dao mà phay, các binh sĩ cũng vậy cứ từng hàng từng hàng mà ngã xuống như họ vừa mới đứng trong hàng ngũ vài giây trước. Tôi chưa bao giờ chứng kiến một cảnh tượng kinh hoàng nào như vậy’.
Trận chiến ác liệt tiếp tục diễn ra tại cây cầu bắc qua Antietam Greek và trên Đường Sunken, sau này được đặt tên là ‘Đường đẫm máu’. Tướng Burnside và binh đoàn của ông cuối cùng đã chiếm được cây cầu mà ngày nay được gọi là Cầu Burnside. Mặc dù quân Liên minh đã tung ra một cuộc tấn công cuối cùng sau khi chiếm được cầu, nhưng tướng AP Hill của Lực lượng miền Nam đã đến đúng lúc. Một ngày giao tranh kinh hoàng đã khép lại. Vào ngày 18 tháng 9, Lee và Quân đội Bắc Virginia rút lui qua Potomac.
‘Mãi mãi độc lập tự do’
Trận Antietam đánh dấu ngày đẫm máu nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, với 23.000 quân lính chết, bị thương hoặc mất tích sau 12 giờ chiến đấu. Tuy nhiên, nó cũng mang lại cơ hội mà tổng thống đã chờ đợi.
Lincoln đã cam kết với cả bản thân và Chúa rằng nếu Quân miền Nam rút lui, ông sẽ đưa ra Tuyên ngôn Độc lập. Với thất bại của Lee, Lincoln đã thực hiện lời hứa của ông. Ông đã ban hành Tuyên ngôn Độc lập vào 22 tháng 9 năm 1862.
Vào 1 tháng 1 năm 1863, Tuyên ngôn Độc lập có hiệu lực, tuyên bố rằng những người nô lệ ở các bang miền Nam “sẽ mãi mãi được tự do”. Khi Tổng thống Lincoln ký Tuyên bố, ông đã không chút do dự.
‘Trong đời mình, điều đúng đắn nhất tôi làm là ký vào bản Tuyên ngôn Độc lập này, nếu tôi có đi vào lịch sử thì không chỉ do nét bút này mà còn do nó có chứa cả tâm hồn tôi trong đó’.
Xem thêm: Bài học vượt khủng hoảng kinh tế của ông chủ tập đoàn Panasonic | Tinh Hoa TV
Nguồn The Epoch Times
Văn Sơn biên dịch
Đăng theo ĐKN