Nhiều phụ huynh, giáo viên,… và dư luận tại Việt Nam rất hoang mang, lo lắng trước hàng loạt bài tập đọc dành cho học sinh lớp 1, được trích từ sách giáo khoa tiếng Việt lớp 1, bộ Cánh Diều từ NXB Đại học Sư Phạm TP.HCM.
Những bài tập đọc đang lan truyền rộng rãi trên mạng xã hội Facebook Việt Nam, được cho là với từ ngữ không phù hợp, nội dung câu chuyện dân gian, ngụ ngôn không thể hiện rõ tính giáo dục. Thậm chí, có câu chuyện được cho là dạy học sinh lớp 1 tính lừa lọc, mưu mẹo, như bài “Cua, cò và đàn cá”.
Bài đọc: “Cua, cò và đàn cá”.
Học sinh còn được dạy cách trốn việc, như bài: “Hai con ngựa”.
Trong khi, nguyên tác của bài trên có tên “Ngựa đực và ngựa cái ” do Lev Tolstoy dịch thành thơ:
“Đêm ngày ngựa cái rong chơi
Còn anh ngựa đực cả đời cày thuê
Ban ngày vất vả ê chề
Đói lòng chập choạng đêm về kiếm ăn
Lại nghe ngựa cái can rằng:
Tội gì cày xới nhọc nhằn anh ơi
Tôi mà bị chủ quất roi
Chổng mông tung vó tôi thời đá ngay
Hôm sau ngựa đực nghỉ cày
Chủ lôi ngựa cái ra thay việc đồng
Thế là ngựa cái đành lòng
Ngày ngày đeo ách ra đồng cày thay”.
Ngoài ra, có những bài thơ đã in sâu trong tâm trí của học trò nay cũng bị cải biên và được dư luận nhận xét là lủng củng, không logic, như bài “Thương ông”.
Trong khi, bài thơ gốc có nội dung:
“Ông bị đau chân
Nó sưng nó tấy
Đi phải chống gậy
Khập khiễng, khập khà
Bước lên thềm nhà
Nhấc chân quá khó
Thấy ông nhăn nhó
Việt chơi ngoài sân
Lon ton lại gần,
Âu yếm, nhanh nhảu:
“Ông vịn vai cháu,
Cháu đỡ ông lên.”
Ông bước lên thềm
Trong lòng sung sướng
Quẳng gậy, cúi xuống
Quên cả đớn đau
Ôm cháu xoa đầu:
“Hoan hô thằng bé!
Bé thế mà khoẻ
Vì nó thương ông.”
Có bài đọc dễ gây hiểu lầm cho học sinh, như bài “Bé Hà, bé Lê”:
Mẩu chuyện có các nhân vật là bà, bố, bé Hà, bé Lê. Theo như ảnh thì Hà là chị của bé Lê, cậu bé vừa tỉnh dậy ngồi trên giường.
Ở bức hình thứ nhất khi Hà bị ho, cô bé đã với bà rằng: “Hà ho, bà ạ”. Nhưng thay vì chăm sóc Hà thì ở bức hình 2, bà lại ra dỗ cậu bé trên giường và nói: “Để bà bế bé Lê đã”.
Theo ý kiến của nhiều phụ huynh, nếu chỉ đọc 1-2 bức hình sẽ rất dễ gây hiểu lầm cho trẻ Tiểu học,…
và… có những bài đọc khiến phụ huynh cũng rất khó hiểu, như bài “Sẻ, quạ”.
Mời quý vị cùng nhìn lại “hàng loạt” những bài đọc được trích từ sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1:
Nhận xét về Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1, Tiến sĩ Chu Mộng Long, Trường Đại học Quy Nhơn viết trên trang cá nhân: “Khi biên soạn giáo trình Văn học cho thiếu nhi, phần văn học dân gian, tôi có nói đến thể loại ngụ ngôn. Ngụ ngôn mang tính trí tuệ hàn lâm hơn là tính chất bình dân.
Về nguồn gốc, thể loại này ra đời từ các triết gia cổ đại nhưng khuyết danh hoặc mang danh một ông nào đó kể lại. Thời cổ có hai loại triết học: tư duy siêu nghiệm và thường nghiệm. Loại thứ nhất thuần tuý trừu tượng. Loại thứ hai thể hiện suy tư về cuộc sống qua quan sát và trải nghiệm của cá nhân rồi đi đến bài học chung cho cả cộng đồng.
Trong phép loại suy đơn giản của logic hình thức, ngụ ngôn thường sử dụng hình tượng loài vật như một ẩn dụ về một triết lý. Điều này làm cho ngụ ngôn khác biệt với truyện loài vật. Ngụ ngôn không lấy loài vật làm đối tượng miêu tả (đặc điểm tự nhiên và mối tương quan với xã hội con người) như truyện loài vật mà chỉ dùng cái tên loài vật như một phương tiện minh họa cho bài học triết lý, còn gọi là hình tượng giả trang. Cho nên hình tượng của ngụ ngôn không là hình tượng trực quan sống động mà là hình tượng của suy tư trừu tượng, tức vẫn đi đến siêu nghiệm như triết học thuần tuý.
Cho nên có loại ngụ ngôn trẻ em tạm hiểu được và có loại trẻ em không thể hiểu được. Loại hiểu được là những truyện đơn giản nằm trong tiềm năng và phạm vi trải nghiệm của trẻ. Còn loại không thể hiểu được là những truyện hoàn toàn thuộc trải nghiệm của người lớn.
Trải nghiệm của người lớn rất phức tạp khi con người phải đối mặt với bao nhiêu vấn đề của cuộc sống: dối trá, lọc lừa, thủ đoạn… Những truyện này nếu áp đặt cho trẻ em, không chỉ trẻ em không thể hiểu được mà còn tác động ngược.
Do tính chất hàm ẩn rất trừu tượng của hình tượng giả trang, cho nên cái sai, cái xấu bị phê phán, giễu cợt trong ngụ ngôn nhiều khi như ma nhập trực tiếp vào trẻ em làm cho trẻ em tự đồng hoá mình với nhân vật. Không chừng trẻ em thấy lười biếng, lừa lọc, dối trá… tốt hơn là thật thà, siêng năng…, mà với giới hạn lứa tuổi ấy, kể cả giới hạn của giờ học chữ, thầy cô rất khó nói sao cho chúng hiểu.
Tôi hiểu những người soạn sách Tiếng Việt 1 cải cách muốn tích hợp học chữ với học trải nghiệm cuộc sống qua ngụ ngôn, nhưng sự tích hợp ấy là vội vàng và hoàn toàn sai lầm.
Không nhất thiết phải biến trẻ mới 6 tuổi thành người lớn nhanh, vì như vậy là giết chết tuổi thơ hồn nhiên của con trẻ. Mà sự lớn nhanh theo tác động tiêu cực từ trong những mẩu chuyện như vậy thì là một thảm họa của xã hội.
Đó là chưa nói, các mẩu chuyện gọi là “phỏng theo” Lev Tolstoy hay La Fontaine đã bị các nhà soạn sách cắt xén, xuyên tạc hoàn toàn khác với nguyên bản. Trong trường hợp ấy, thầy cô nếu không biết nguyên bản sẽ còn hiểu sai và dạy sai, huống hồ là đặt vào không gian quá tầm đón nhận của trẻ em.
Tôi thật sự bất ngờ là truyện ngụ ngôn lại chiếm một dung lượng lớn trong sách Tiếng Việt 1. Cái chữ với trẻ em đã là ký hiệu trừu tượng, lẽ ra chính câu chuyện và hình ảnh trực quan sẽ làm cho cái chữ trừu tượng trở nên gần gũi, dễ hiểu, đằng này người viết sách chủ quan ném truyện ngụ ngôn vào đó làm cho cái trừu tượng thêm trừu tượng và rắc rối, phức tạp hơn nữa.
Cách bắt ép con chữ với những từ ngữ lượm lặt vỉa hè của dân nói tiếng lóng như “nhá cỏ”, nhá dưa”, “gà nhí”, “gà nhép”,… tưởng sẽ phù hợp với nội dung học chữ, đằng này một mặt làm cho câu văn tối nghĩa, mặt khác làm méo mó, lệch lạc truyện gốc, biến truyện đã khó hiểu lại càng thêm khó hiểu. Đó là mục tiêu phát triển năng lực theo nghĩa đánh thức và phát huy tiềm năng của lứa tuổi hay thách đố trí tuệ trẻ em?
Kết luận nôm na thế này. Đối với người lớn, khi tôi nói toạc móng heo mọi thứ mà nhiều người còn chưa hiểu rồi sinh tranh cãi, chụp mũ tuỳ tiện, huống hồ nói chuyện ngụ ngôn, tức hàm ẩn, bóng gió với trẻ em?”
Văn Duy - Theo Tri Thức VN