Để đi tìm chân lý, bà đã chịu muôn thứ khổ; để tu luyện hoàn nghiệp, bà đã lưu lại truyền kỳ, nhiều phen thập tử nhất sinh, tựa như tái hiện Phật Milarepa thuở xưa. Cuộc đời tựa như một bộ phim của ni cô Thích Chứng Thông khiến nhiều người cảm thán…
Vâng lời cha kết hôn, sinh con vẫn không giảm nguyện vong xuất gia
Thích Chứng Thông sinh ra tại một thôn làng nhỏ nghèo khó tại xã Lý Cảng, huyện Bình Đông, thuộc miền Nam Đài Loan. Bà từ nhỏ đã không thích chốn náo nhiệt, sau khi tan học thường đến một ngôi chùa ở gần đó, lặng lẽ ngồi tọa dưới gốc cây. Các nhà sư trong chùa hỏi bà có muốn xuất gia không, bà thành thực gật đầu. Năm hơn bốn tuổi, một hộ trong thôn làm đám cưới con, người cả thôn đều đi uống rượu cưới, bà hỏi nhỏ phụ thân: “Vì sao phải kết hôn vậy cha? Con lớn lên sẽ không như người này đâu”.
Vì bà bẩm sinh tính vừa lanh lợi vừa giản dị, nên từ năm 15 tuổi đã bắt đầu có người đến xin kết thông gia không ngớt, nhưng đều bị bà cự tuyệt. Tuy nhiên năm 21 tuổi, anh trai thầy giáo bà và phụ thân bà đi xa buôn bán cùng nhau, khi trở về đã định chuyện cưới xin, do vậy bà xuất giá.
Nháy mắt đã hai chục năm trôi qua, bà kinh doanh một công ty gia đình xuất khẩu thương mại. Bất chấp sự nghiệp phát đạt, được chồng quan tâm, hai trai một gái hiếu thuận, tất cả dường như không đem lại hạnh phúc thật sự cho bà.
Bà thường khóc một mình, nước mắt đẫm hai má. Sau khi sắp xếp xử lý công việc bận rộn, bà đều ngồi xếp bằng trên ghế dựa, cung kính lấy ra kinh thư cất trong ngăn kéo rồi nghiêm túc đọc. Cảm thấy đời người ngắn ngủi, vạn sự vô thường, nguyện vọng xuất gia của bà càng ngày càng mạnh mẽ.
Nhất tâm hướng Phật đợi cơ duyên, cuối cùng cạo đầu đi tu
Hồi ấy Thích Chứng Thông mỗi ngày đều đả tọa vào sáng sớm, có thể nhìn thấy rất nhiều cảnh tượng. Thực ra bà từ bé đã khai mở con mắt thứ ba (thiên nhãn), có thể nhìn thấy rất nhiều cảnh tượng kỳ dị, chỉ là bà cho rằng ai ai cũng đều nhìn thấy như thế nên không đi nói với ai. Thời thơ ấu bà nhìn thấy vạn sự vạn vật đều đang sống, mỗi lần qua cầu, bà đều nói với cây cầu: “Xin lỗi, phiền cho ta qua nhé”. Nhìn thấy hoa cỏ cây cối, bà đều chào và hỏi thăm.
Có một lần vào buổi sớm một hôm nọ, bà ngồi đả tọa tại công ty và nhìn thấy đủ loại cá xếp thành hàng ngũ đang bơi qua, miệng đều ngoảnh về phía bà như đang kể lại điều gì. Bà thấy rất kỳ quái, mới hỏi một đồng nghiệp thích câu cá trong công ty: “Hôm qua anh đi đâu?” Người kia nghe xong đáp ngay: “Á! Chị biết rồi à! Không phải tôi làm đâu, tôi chỉ là chạy xe chở họ đi bắt cá thôi; họ dùng điện, đem bắt tất cả cá lên”. Bà nghe xong hai hàng nước mắt chảy dài.
Nhìn thấy Phật quốc thù thắng trang nghiêm…
Vừa mới học lái xe, một lần bà đột nhiên nhìn thấy xe huấn luyện viên biến thành rộng rãi phi thường, xuất hiện một cảnh tượng Phật quốc thù thắng trang nghiêm. Nguyên là trên xe huấn luyện viên mới treo một tấm bùa hình Phật khoảng hai tấc. Còn có một lần, bà từ phòng làm việc công ty đi tới nhà xưởng, đột nhiên nghe thấy “bang” một tiếng, chỉ thấy trên không trung nở ra một đóa hoa sen rất lớn. Bà thực sự cảm thấy tồn tại chân thật của thế giới Phật quốc, kinh Phật nói chẳng sai.
Sống giữa dòng thế tục thấm đẫm danh lợi tình, bà cảm thấy như bị giày vò ngày qua ngày. Khi ấy bà đã thụ “Bồ Tát giới tại gia”, đây đã là giới luật tối cao của cư sĩ không xuất gia, sau nữa là phải tu xuất gia.
Khi ở bên các con, bà thường kể chuyện Phật giáo cho chúng nghe, lại nói với chúng rằng một ngày nào đó mẹ của chúng sẽ ly khai thế tục, xuất gia tu hành. Bà nhất tâm hướng Phật, đến năm hơn 40 tuổi, cơ duyên cuối cùng đã chín muồi, người nhà của bà không nhẫn tâm lại để bà tiếp tục chịu giày vò nữa, đều đồng ý để bà xuất gia. Sau 40 năm chờ đợi đằng đẵng trong khổ sở, bà đã hoàn thành nhân duyên thế tục; bà cạo đầu trở thành một vị ni cô, pháp hiệu Thích Chứng Thông.
Làm trụ trì xây tịnh xá, hành hương sang Tây Tạng suýt mất mạng
Xuất gia không lâu, Thích Chứng Thông đã trở thành trụ trì của ngôi chùa. Sau đó dưới sự khẩn cầu của cư sĩ, bà xây dựng một tịnh xá trên núi hoang.
“Khai phá núi rất khổ cực, làm cỏ san đất, tất cả đều tự mình làm. Một ngày tôi một mình làm đến nửa đêm, đột nhiên một con rắn độc, loại bách bộ xà bò tới, dừng trước mặt tôi. Tôi bảo nó quy y theo Phật, để nó đi thật xa, không được hại người, cũng không bị người làm hại. Nó nghe xong thuận theo gác thang mà bò đi”. Cũng như vậy, để khiến thật nhiều người hữu duyên tiếp xúc Phật Pháp, pháp sư Thích Chứng Thông trước sau đã xây ba tịnh xá tại ba chỗ trên ngọn núi hoang.
Để tìm kiếm chân lý nhân sinh, khi đảm nhiệm chức trụ trì, Thích Chứng Thông còn nhiều lần thăm viếng danh sơn thắng địa để truy tìm dấu vết của Đại Giác Giả. Bà đã từng qua Tây Tạng, Himalaya, Trường Giang, thượng nguồn Hoàng Hà, núi Côn Lôn, Nepal và Ấn Độ.
Hành hương là rất khổ sở. Đường đi đều là nơi hoang dã, hoang mạc hoặc bãi sông, khi ăn cơm chỉ có thể đào một cái hố trên mặt đất để đun nước, sinh hoạt gian khổ phi thường. Khi đến Tây Tạng, do không khí loãng, Thích Chứng Thông bắt đầu xuất hiện phản ứng cao nguyên, cộng thêm gánh nặng chịu thống khổ cho một vị nữ cư sĩ đi cùng, kết quả tâm tạng chịu không nổi, suýt nữa mất mạng.
Tâm không thoái thác, cầm bát vân du, khổ tìm đường trở về
Tuy nhiên sau khi tiêu tốn rất nhiều tiền bạc và nỗ lực, Thích Chứng Thông vẫn không thu hoạch được gì mấy sau nhiều chuyến hành hương, “trong tâm không có cảm giác chắc chắn, đối với tu luyện lên tầng thứ cao như thế nào vẫn y nguyên không minh bạch. Đặc biệt là nhiều người bám theo tôi, khiến tôi cảm thấy rất hoảng hốt. Ngay cả tôi cũng không biết viên mãn như thế nào, thì làm sao giúp được họ đây?”
Để có trách nhiệm với người ta, Thích Chứng Thông kiên quyết ly khai đạo trường truyền thống, lựa chọn “chân trần cầm bát vân du”, phương thức truy tìm Phật Pháp thuần khiết nhất và cũng là khổ nhất của thời đại Phật Thích Ca Mâu Ni. Chính như bà viết trong một bài thơ: “Một bát cơm nghìn nhà, Cô tăng vạn lý du, Chỉ để thoát sinh tử, Hóa độ khắp xuân thu”.
Cầm bát vân du là phi thường gian nan. Ly khai tịnh xá, một chút nguồn sinh hoạt cũng không có, quần áo, lương thực, nơi ở, thảy đều không có, hỏi sống làm sao đây? Đặc biệt trong xã hội hiện đại không có tôn trọng đối với tăng nhân như thời đại Phật Thích Ca Mâu Ni, để từ nhà người ta xin một chút cơm ăn, phải chịu các loại nhạo báng, nhục mạ, vũ nhục và bất lý giải, “đến đâu cũng thấy mỗi người một vẻ, có một nụ cười thiện tâm đối với tôi là một niềm cổ vũ lớn lao”. Tuy nhiên hết thảy đều không ngăn được niềm tin hướng về chân lý Phật Pháp của Thích Chứng Thông.
Đi đến cùng cực khổ ải…
Mỗi ngày Thích Chứng Thông đều mang theo một cái ô, hành lý, túi ngủ, v.v. chân trần bước đi, liên tục không ngừng. Hai chân rất nhanh cọ sát đến mọc bóng nước, gan bàn chân tróc da, chảy cả máu, nhưng bà vẫn tiếp tục đi. “Khi bước đi trên đường nhựa rất bỏng, dẫm nhầm hòn đá trên đường, chân đau buốt đến tận tim. Tôi từng ngủ cạnh ngôi mộ, ngủ ngoài trời dưới gốc cây, ma nạn mà thân tâm phải chịu đựng là không cách nào biểu đạt. Tôi chỉ mong tìm được một con đường quay trở về ngôi nhà đích thực trên thiên giới, tìm được một vị sư phụ chân chính dẫn tôi trở về nhà”.
Thích Chứng Thông vô cùng khiêm tốn nội tâm, bà không nguyện ý nói ra nỗi khổ mà mình phải chịu, rất nhiều người ngoài coi là sự việc kinh thiên động địa, nhưng đối với bà đó chỉ là một hai câu ngắn ngủi mà bà kể lại mà thôi.
Thân tâm bên bờ tuyệt vọng, chợt gặp được ý nghĩa chân chính của cuộc đời mình…
Tuy nhiên vân du cũng không thể khiến Thích Chứng Thông đã hơn 50 tuổi tìm thấy chân Pháp chân Đạo, trái lại thân thể với bao bệnh tật thời niên thiếu, lại chịu bao đau khổ dằn vặt khi vân du khắp trong và ngoài nước, kết quả bách bệnh triền thân. “Phàm là những bệnh mà bệnh viện có thể kể tên ra, thì tôi đều có gần hết, đặc biệt là bệnh tim, bệnh dạ dày, bệnh thận, đau nhức kinh lạc, vẹo lệch sống eo, trật khớp cột sống, v.v. có rất nhiều”.
Các bệnh trên thân thể, cộng thêm tâm bệnh tìm không thấy chân lý, trong ngoài đều khốn đốn, khiến Thích Chứng Thông gần như tuyệt vọng, đặc biệt là sau năm 1992.
“Trước kia tôi xem kinh thư, thấy đằng sau đều có nội hàm. Tôi có thể nhìn thấy chư Phật Bồ Tát, các chủng cảnh tượng thiên đường; tuy nhiên từ sau năm 1992, chúng đều biến mất. Điều này khiến tôi cảm thấy rất kỳ quái, cũng rất tuyệt vọng. Kinh Phật là dùng để độ nhân, nhưng hiện tại Pháp thân của Phật đã ly khai nhân gian rồi, rốt cuộc đã phát sinh sự việc gì?”
Câu trả lời bà đã tìm thấy: Cuốn “thiên thư” “Chuyển Pháp Luân”
Mãi tới một ngày đầu năm 1998, một vị bác sĩ y thuật cao minh tặng bà một bản «Chuyển Pháp Luân». “Tuy khi ấy tôi còn chưa biết đây là cuốn sách gì, nhưng trước khi mở, hai tay tôi giương cuốn sách lên quá đỉnh đầu, rồi mới mở ra. Vừa nhìn thấy ảnh Sư phụ, nước mắt tôi bỗng chốc tuôn rơi, không biết là vì sao. Tôi hình như đã sáng tỏ thân phận, lai lịch của Sư phụ; tôi biết tôi cuối cùng đã tìm thấy Sư phụ chân chính rồi. Khi ấy nước mắt tôi cũng như những hột trân châu, nhỏ xuống từng giọt”
Thân thể bà đột nhiên cải biến diệu kỳ, các loại bệnh đều tiêu mất sạch…
“Đoạn thời gian ấy nước mắt tôi tựa hồ không ngừng tuôn rơi. Khi tôi nhìn thấy lần đầu học viên luyện công đả thủ ấn, nước mắt tôi chỉ là không ngừng nhỏ xuống, cảm giác phi thường thân thiết. Lần đầu tiên luyện công, tôi đã nghe thấy huyệt dũng tuyền ở hai chân tách mở ‘păng’ một cái, tôi thực sự thể nghiệm được cảm giác ‘trăm mạch đồng thời vận chuyển’. Toàn bộ cơ thể tôi rất nhanh ở trong trạng thái thoát thai hoán cốt, các loại bệnh đều tiêu mất sạch”.
Thích Chứng Thông kể, khi ấy bà mới minh bạch, Sư phụ Lý Hồng Chí là đang chân chính cứu người. Thảo nào hồi năm 1992 xem kinh thư Phật giáo, phát hiện thấy không có nội hàm nào đằng sau, bởi vì Sư phụ đã bắt đầu truyền Đại Pháp rồi.
“Sư phụ dùng toàn ngôn ngữ thiển bạch nhất của nhân loại, mà đem đạo lý cao thâm ra giảng xuất lai. Ví như nói, trong Phật giáo có các chủng giải thích đối với Phật, nhưng Sư phụ giảng: Người tu luyện giác ngộ rồi được gọi là ‘Phật’, chỉ một câu mà đã bao hàm nội dung hàng vạn quyển kinh thư. Lại ví như tu luyện rốt cuộc là gì, Sư phụ giảng, tu luyện chính là quá trình không ngừng tống khứ tâm chấp trước ràng buộc của con người; đây đều là đạo lý mà chúng tôi tu Phật mấy chục năm qua vẫn chưa minh bạch, Sư phụ chỉ một câu đã chỉ rõ ra rồi”.
Đại Pháp tựa như chiếc xe tốc hành, khiến con người tu thành nhanh nhất
“Tháng 8 năm 1998, tôi may mắn được gặp Sư phụ sau Pháp hội Singapore, khi ấy tôi hỏi Sư tôn: ‘Con trước đây đã là đệ tử của Phật, hiện nay vẫn là đệ tử của Phật, xin hỏi con có thích hợp tham gia hoạt động Đại Pháp hay không?’ Sư tôn sau khi khai thị một đoạn Pháp lý, nói có thể tu”.
Từ đó, Thích Chứng Thông đem toàn thân tâm đặt vào tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, lại nghĩ đem lịch trình muôn vàn khổ sở tìm kiếm chân lý của mình cho nhiều người hơn nữa biết. Bà trước tiên tìm những người xuất gia và cư sĩ mà bà biết trước đây, thế nhưng trong số họ không ít người không thể lý giải.
Thích Chứng Thông lúc này mới minh bạch, vì sao lần đầu tiên gặp được Sư phụ, trong tâm bà vang lên câu: “Chư vị đang hô khẩu hiệu, luôn miệng nói phải tu luyện, nhưng thực sự khi đến lúc, chư vị lại không đến đắc chân Pháp”. Tuy nhiên bà cũng không vì vậy mà chán nản, bởi vì có rất nhiều người hữu duyên đang đợi ngoài chùa chiền.
Đem may mắn tới cho những người hữu duyên…
Một lần tại lớp dạy Pháp Luân Công cho các giáo viên Đài Loan, bà giới thiệu với các giáo viên ở dưới bục:
“Tôi nguyên là tu luyện Phật giáo, nhưng tôi đến muộn rồi; tôi không bắt kịp truyền pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni, chỉ bắt kịp thời kỳ mạt pháp. Nhưng tôi rất có may mắn, lỡ mất dịp này, nhưng lại gắng sức lên được chiếc xe tốc hành; tuy rằng cất bước chậm, nhưng tôi đã đạt mục đích, Pháp Luân Công tựa như chiếc xe tốc hành ấy, có thể khiến con người tu thành viên mãn mau lẹ nhất”.
Về không ít người trước đây từng học qua pháp môn khác mà nay không dám luyện Pháp Luân Công vì sợ sư phụ cũ không vui, Thích Chứng Thông nói:
“Cũng giống như chúng ta đi học, từ tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, đại học, nghiên cứu sinh, đến tiến sĩ, thầy giáo trước đây của chúng ta không chỉ vì chúng ta nhận thầy giáo khác mà không mừng vui, chỉ cần chúng ta đề cao lên, thì sư phụ trước đây của chúng ta càng mừng vui”.
Nhẫn chịu trọng thương tông xe và chứng kiến sự nhiệm màu phi thường của Phật Pháp: xương gẫy tự liền…
Thích Chứng Thông trước sau bị 5 lần xe hơi đâm rất nghiêm trọng, đúng là thập tử nhất sinh. Sáng sớm một ngày năm 1999, trời còn chưa sáng, bà đã lái xe máy tham gia điểm luyện công buổi sáng sớm và bị một kẻ say rượu đâm trúng. Lúc ấy xương cánh tay trái của bà bị đâm gẫy, mạch máu bị vỡ, toàn bộ cánh tay biến thành tím đen, lại sưng phù lên.
Khi kẻ say rượu tỉnh lại, anh ta hét lên: “Thật xin lỗi, để tôi đưa bà đi bệnh viện nhé, nếu không chị gái tôi mắng chết tôi”. Nhưng Thích Chứng Thông từ từ bò dậy khỏi mặt đất, nói mình không hề gì và để anh ta đi. Bà leo lên xe gắn máy đến điểm luyện công, nhưng không nói với ai về sự việc tông xe, mà nhẫn nhịu đau đớn do gãy xương và luyện công cùng đám đông. Sau khi mọi người phát hiện ra, họ vô cùng kính phục lực nhẫn nại của bà.
Hơn một tháng sau, trong tình huống không có trị liệu nào, đoạn xương gẫy của bà đã liền lại, so với trị liệu của bệnh viện còn nhanh hơn. Sau đó một người trong giới y học hiểu biết sự việc nói: “Theo phân tích hiện trường, xương sườn của bà khẳng định đã bị đâm gẫy, không tin cứ hỏi bà”. Thích Chứng Thông cười, nói: “Đúng vậy, gẫy rồi, người ta không nhìn thấy, tôi cũng không nói nữa”.
Cũng như vậy, bằng nghị lực siêu thường và sự nhiệm màu của Phật pháp, Thích Chứng Thông đã vượt qua mấy ma nạn nữa, và trong mắt bà, những tai nạn đụng xe này đều là hoàn trả nghiệp lực còn thiếu trong quá khứ, chịu khổ có thể tiêu nghiệp.
Ưu Đàm Bà La hoa khai nở…
Theo kinh Phật ghi lại: Long Hoa tam hội nguyện tương phùng, sau năm mươi ức năm, Phật Di Lặc hạ thế, giảng Pháp tam biến, độ hết tất cả chúng sinh hữu duyên.
Thích Chứng Thông nói: “Ngay từ lần đầu tiên nhìn thấy ảnh Sư tôn, bỗng chốc nước mắt tôi tuôn rơi, không hiểu vì sao, trong nội tâm hình như đã sáng tỏ về thân phận và lai lịch của Sư tôn. Mãi tới hai năm sau, khi tôi lần đầu tiên xem băng hình giảng Pháp của Sư tôn tại Bắc Kinh năm 1996, xem đến đoạn giảng Pháp về Phật Di Lặc chuyển thế, mới minh bạch ra: Chuyển Luân Thánh Vương đã hạ thế, cũng là Phật Di Lặc tái sinh rồi”. Tới năm 2008, khi Thích Chứng Thông tận mắt nhìn thấy hoa Ưu Đàm Bà La, bà lại càng minh bạch hơn nữa về sự việc này.
Về hoa Ưu Đàm Bà La, quyển 4 kinh «Pháp Hoa Văn Cú» viết: “Ưu Đàm hoa, có nghĩa là may mắn linh thiêng. Ba nghìn năm mới nở một lần, khi nở là Kim Luân Vương xuất hiện”. Quyển 8 kinh «Huệ Lâm Âm Nghĩa» ghi rõ: “Ưu Đàm hoa, là lược dịch sai từ tiếng Phạn cổ. Đúng Phạn ngữ là Ô Đàm Bạt La, nghĩa là điềm lành linh dị. Đây là Thiên hoa, thế gian không có loại hoa này. Nếu Như Lai giáng sinh, Kim Luân Vương xuất hiện ở thế gian, thì nhờ đại phúc đức của Ngài mà xuất hiện loài hoa này.”
Trên thực tế, ngay từ đầu năm 2005, người ta đã phát hiện khoảng chục đóa hoa Ưu Đàm Bà La mọc trên tượng Bồ Tát trong thiền viện Tu Di Sơn ở Hàn Quốc. Sau đó, các nơi trên thế giới liên tục xuất hiện loại hoa mang điềm lành này. Thân hoa Ưu Đàm Bà La mỏng như sợi tơ tằm, sắc hoa trắng như tuyết, xung quanh tỏa ra vầng sáng nhàn nhạt, có bông còn phát xuất hương thơm thoang thoảng. Điều đặc biệt nhất là loài hoa này có thể mọc trên bất kỳ vật dẫn nào, cho dù là tượng đồng, sắt thép, thủy tinh, hay là keo dán, trái cây, thực vật, v.v. Bất kể nóng lạnh thế nào, bất kể nơi chốn nào, đều có thể khai nở.
Sau này tôi mới minh bạch ra, Phật Tổ nói năm mươi ức năm sau Phật Di Lặc hạ thế, đối ứng với nhân gian chính là ngày hôm nay, bởi vì không gian khác nhau có khái niệm thời gian khác nhau. Trải qua hơn 10 năm tu Đại Pháp, tôi ngày càng kiên tín, Sư tôn là đến phổ độ chúng sinh”.
Hồi tưởng lại hơn 10 năm tu luyện trong Đại Pháp, Thích Chứng Thông cảm thán nói: “Tôi có dùng hết ngôn ngữ của nhân loại cũng không cách nào biểu đạt được cảm ân và tôn kính của mình đối với Sư tôn. Càng tu càng thấy Đại Pháp vô biên, không lời biểu đạt, càng tu càng thấy bản thân còn thua xa yêu cầu của Sư tôn. Tôi xin dùng bài thơ dưới đây để biểu đạt lòng cảm kích của tôi:
‘Khi Phật tại thế ta đắc Pháp
Khi Phật Chính Pháp ta đang tìm
Mừng gặp kiếp này đủ phúc phận
Được thấy Chân Phật thân vàng kim’”.
Hà Phương biên tập theo chanhkien.org
Hoa Ưu Đàm Bà La ghi lại trong kinh Phật đã khai nở, chính là lúc Chuyển Luân Thánh Vương hạ thế độ nhân; câu chuyện của Thích Chứng Thông thật đáng để chúng ta suy ngẫm.
Xem thêm video: Thích Chứng Thông - cô tăng vạn lý đi tìm Đạo